AfterSixty
Thành viên tích cực
Lý Thế Dân (599-649) là con trai thứ hai của Lý Uyên, hoàng đế khai quốc của nhà Đường. Ông là một vị tướng tài giỏi, đóng vai trò quan trọng trong việc giúp cha lật đổ nhà Tùy và xây dựng triều đại mới.
Khi nhà Tùy suy yếu vì thuế khóa nặng nề và chiến tranh liên miên, Lý Thế Dân đã thuyết phục cha mình *******. Dưới sự chỉ huy của ông, quân Đường nhanh chóng chiếm Trường An và lật đổ nhà Tùy vào năm 618, Lý Uyên lên ngôi, lập nhà Đường. Mặc dù có công lớn, Lý Thế Dân chỉ được phong làm Hoàng tử Tần, trong khi anh trai Lý Kiến Thành trở thành Thái tử.
Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa Lý Thế Dân và Lý Kiến Thành ngày càng căng thẳng. Lo sợ trước tài năng của em trai, Lý Kiến Thành cùng Lý Nguyên Cát tìm cách loại trừ Lý Thế Dân. Để bảo vệ mình, Lý Thế Dân đã chủ động ra tay trước bằng cuộc chính biến tại Cổng Huyền Vũ năm 626, giết cả hai anh em đối thủ. Sau đó, ông buộc Lý Uyên thoái vị và lên ngôi, trở thành Hoàng đế Đường Thái Tông.
Vì thế người đời sau này cho rằng Lý Thế Dân trong lịch sử là 'đứa con bất hiếu, người em bất nghĩa', nhưng không thể phủ nhận dưới thời Lý Thế Dân, nhà Đường phát triển rực rỡ, trở thành một trong những triều đại hưng thịnh nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông tiến hành nhiều cải cách chính trị, kinh tế và quân sự, đặt nền móng cho sự thịnh vượng kéo dài suốt hơn một thế kỷ sau đó.
Về chính trị, Đường Thái Tông tinh giản bộ máy nhà nước, tuyển chọn quan lại dựa trên tài năng thay vì dòng dõi, sử dụng chế độ khoa cử để tìm kiếm nhân tài. Ông cũng lắng nghe ý kiến của các quan lại trung thành, khuyến khích sự thẳng thắn và hạn chế tham nhũng.
Về kinh tế, ông giảm nhẹ thuế khóa, khuyến khích sản xuất nông nghiệp, cải cách hệ thống ruộng đất để đảm bảo công bằng, giúp đời sống dân chúng ổn định. Các chính sách này giúp đất nước phục hồi sau loạn lạc thời nhà Tùy và phát triển mạnh mẽ.
Về quân sự, Đường Thái Tông mở rộng lãnh thổ, đánh bại nhiều kẻ thù như Đông Đột Quyết, Tây Đột Quyết và Cao Câu Ly. Dưới sự lãnh đạo của ông, nhà Đường không chỉ vững mạnh trong nước mà còn trở thành một đế quốc hùng cường, có ảnh hưởng lớn ở châu Á.
Nhờ những thành tựu này, thời kỳ trị vì của Đường Thái Tông được coi là "Trinh Quán chi trị" (Trị vì thời Trinh Quán), một giai đoạn thịnh vượng kiểu mẫu trong lịch sử Trung Quốc. Cụ thể như dưới đây:
Khi nhà Tùy suy yếu vì thuế khóa nặng nề và chiến tranh liên miên, Lý Thế Dân đã thuyết phục cha mình *******. Dưới sự chỉ huy của ông, quân Đường nhanh chóng chiếm Trường An và lật đổ nhà Tùy vào năm 618, Lý Uyên lên ngôi, lập nhà Đường. Mặc dù có công lớn, Lý Thế Dân chỉ được phong làm Hoàng tử Tần, trong khi anh trai Lý Kiến Thành trở thành Thái tử.
Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa Lý Thế Dân và Lý Kiến Thành ngày càng căng thẳng. Lo sợ trước tài năng của em trai, Lý Kiến Thành cùng Lý Nguyên Cát tìm cách loại trừ Lý Thế Dân. Để bảo vệ mình, Lý Thế Dân đã chủ động ra tay trước bằng cuộc chính biến tại Cổng Huyền Vũ năm 626, giết cả hai anh em đối thủ. Sau đó, ông buộc Lý Uyên thoái vị và lên ngôi, trở thành Hoàng đế Đường Thái Tông.
Vì thế người đời sau này cho rằng Lý Thế Dân trong lịch sử là 'đứa con bất hiếu, người em bất nghĩa', nhưng không thể phủ nhận dưới thời Lý Thế Dân, nhà Đường phát triển rực rỡ, trở thành một trong những triều đại hưng thịnh nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông tiến hành nhiều cải cách chính trị, kinh tế và quân sự, đặt nền móng cho sự thịnh vượng kéo dài suốt hơn một thế kỷ sau đó.
Về chính trị, Đường Thái Tông tinh giản bộ máy nhà nước, tuyển chọn quan lại dựa trên tài năng thay vì dòng dõi, sử dụng chế độ khoa cử để tìm kiếm nhân tài. Ông cũng lắng nghe ý kiến của các quan lại trung thành, khuyến khích sự thẳng thắn và hạn chế tham nhũng.

Về quân sự, Đường Thái Tông mở rộng lãnh thổ, đánh bại nhiều kẻ thù như Đông Đột Quyết, Tây Đột Quyết và Cao Câu Ly. Dưới sự lãnh đạo của ông, nhà Đường không chỉ vững mạnh trong nước mà còn trở thành một đế quốc hùng cường, có ảnh hưởng lớn ở châu Á.
Nhờ những thành tựu này, thời kỳ trị vì của Đường Thái Tông được coi là "Trinh Quán chi trị" (Trị vì thời Trinh Quán), một giai đoạn thịnh vượng kiểu mẫu trong lịch sử Trung Quốc. Cụ thể như dưới đây:
Hòa hợp các phe phái, không xét thù cũ, trọng dụng hiền tài
Sau biến cố Huyền Vũ Môn, Lý Thế Dân khi đó vẫn là Tần Vương nhận được mật báo rằng Đông Cung (cung Thái tử) có một viên quan tên là Ngụy Trưng đã từng tham gia quân khởi nghĩa của Lý Mật và Đậu Kiến Đức, ngoài ra còn là thuộc hạ của Thái tử Lý Kiến Thành, đồng thời đã khuyên Lý Kiến Thành giết hại Tần Vương.
Lý Thế Dân nghe xong nổi giận, lập tức sai người tìm Ngụy Trưng giải đến. Lý Thế Dân nghiêm giọng hỏi Ngụy Trưng: “Tại sao ngươi xúi bẩy ly gián tình huynh đệ ta?”.
Các đại thần xung quanh thấy Tần Vương hỏi như thế đều cho rằng tính mệnh Ngụy Trưng chỉ còn trong chốc lát, nên ai nấy đều toát mồ hôi sợ hãi thay Ngụy Trưng. Nhưng Ngụy Trưng vẫn thần thái tự tại, ung dung trả lời: “Chỉ tiếc rằng Thái tử không nghe lời tôi, nếu không đã không có chuyện ngày hôm nay”.
Lý Thế Dân nghe xong không những không xử tội Ngụy Trưng, mà còn cảm thấy Ngụy Trưng quả là người chính trực, lại có can đảm và tầm nhìn xa trông rộng, đúng là bậc nhân tài. Thế là Lý Thế Dân lập tức vui vẻ nói: “Chuyện đã qua rồi, không cần nói đến nữa”. Từ đó ông luôn giữ Ngụy Trưng bên mình.
Sau khi Lý Thế Dân lên ngôi, biết rõ Ngụy Trưng trực ngôn, dám nói nên đề bạt ông làm Gián nghị Đại phu, còn chọn một số thuộc hạ cũ của Lý Kiến Thành, Lý Nguyên Cát làm quan. Điều này khiến các thuộc hạ cũ của Lý Thế Dân bất bình, họ thường bàn tán: “Chúng ta theo Hoàng đế chinh chiến khắp nơi đã bao năm, ra sinh vào tử, bây giờ lẽ ra là lúc hưởng phúc, vậy mà Hoàng đế lại thăng quan phong tước cho người của Đông Cung, Tề Vương Phủ, sao lại có đạo lý này được?”.
Tể tướng Phòng Huyền Linh đem những bất mãn của các đại thần báo cáo lên. Lý Thế Dân liền cười lớn và nói với văn võ bá quan khắp triều rằng: “Triều đình đặt các chức quan, mục đích là để quản lý trị vì quốc gia, cần phải lựa chọn hiền tài. Những quan hệ trước đây đều không thể dùng là tiêu chuẩn chọn nhân tài được. Nếu người mới có tài năng, người cũ không có tài năng, thì đương nhiên không thể bài xích người mới mà trọng dụng người cũ được”.
Các đại thần nghe rồi, từ đó trở đi không còn có ai dám nghị luận bàn tán bừa bãi nữa.
Tôn chỉ lựa chọn nhân tài không tính hiềm khích thù hận cũ của Lý Thế Dân đã khích lệ các đại thần hòa hợp, bỏ qua thù hận xưa, dốc sức giúp vua trị nước, đồng thời khiến cho khắp triều đình thịnh hành phong thái chính trực, có ý kiến thì nói thẳng trực diện. Nhất là Ngụy Trưng, đối với việc triều chính, bất kể to nhỏ, đều suy nghĩ tỉ mỉ chu đáo, có ý kiến gì cũng nói thẳng trước mặt Lý Thế Dân. Điều đó khiến Lý Thế Dân ngày càng tín nhiệm ông, thường triệu ông vào nội cung hỏi ý kiến. Rất nhiều việc Lý Thế Dân đều vui vẻ nghe theo ý kiến Ngụy Trưng.
Đều là người thông minh, minh quân và hôn quân chỉ khác nhau là biết nghe ý kiến kẻ dưới hay không
Một lần Lý Thế Dân hỏi Ngụy Trưng: “Trong lịch sử, các vị quân vương sao lại có người anh minh trí tuệ, sao lại có người mê muội bất tài?”.
Ngụy Trưng nói: “Người có thể nghe ý kiến rộng rãi mọi mặt thì anh minh trí tuệ, người chỉ nghe một phía thì mê muội bất tài”. Ông còn lấy ví dụ các vua Nghiêu, Thuấn và Tần Nhị Thế, Lương Vũ Đế, Tùy Dạng Đế, rồi nói: “Bậc quân vương trị vì thiên hạ, nếu có thể tiếp thu các ý kiến của kẻ dưới thì sự tình bên dưới được thông đạt lên trên, thân tín của quân vương muốn che đậy cũng không che đậy được”.
Lý Thế Dân nghe kiến giải của Ngụy Trưng, gật đầu liên tiếp thốt lên: “Khanh nói thật chí lý!”.
Một hôm Lý Thế Dân đọc xong văn tập của Tùy Dạng Đế, nói với các đại thần xung quanh rằng: “Tùy Dạng Đế thực ra cũng không phải là vị vua không hiểu biết gì, ông ta học vấn rất uyên bác, cũng hiểu Nghiêu, Thuấn tốt, Kiệt, Trụ không tốt. Nhưng tại sao ông ấy vẫn làm những việc hoang đường như vậy nhỉ?”.
Ngụy Trưng liền tiếp lời: “Một Hoàng đế chỉ dựa vào thông minh uyên bác là không đủ, phải cần khiêm tốn lắng nghe ý kiến các bề tôi. Tùy Dạng Đế tự cho là tài cao, kiêu ngạo tự tin. Cho dù ông ta muốn giống như vua Nghiêu, Thuấn, nhưng việc làm lại giống như vua Kiệt, Trụ. Đó chính là ông ta tự chuốc lấy diệt vong”.
Lý Thế Dân nghe xong, vô cùng cảm động, than rằng: “Ôi, bài học xưa chính là tấm gương, là vết xe đổ cho chúng ta ngày nay”.
Vua anh minh phải có tấm lòng bao dung như biển cả
Lý Thế Dân thấy rằng dưới sự trị vì của mình, quốc gia ngày càng ổn định, phồn vinh, trong lòng ông rất vui. Ông nhận thấy lời khuyên can của các đại thần đã giúp ích rất lớn, bèn nói với họ: “Trị quốc như trị bệnh, bệnh tuy đã trị khỏi rồi, nhưng vẫn cần nghỉ dưỡng cho tốt, không được lơ là cảnh giác. Hiện nay Trung Nguyên đã yên ổn, bốn phương quy phục, từ xưa đến nay, rất ít khi có được cục diện như thế này. Nhưng ta vẫn nên tăng cường cẩn trọng mới được, chỉ sợ không giữ được lâu dài. Do đó ta muốn nghe nhiều lời can gián của các khanh hơn nữa”.
Ngụy Trưng vui mừng nói: “Tâu bệ hạ, bệ hạ trong hoàn cảnh yên ổn, thái bình mà vẫn nghĩ đến tình hình nguy cấp, thật khiến cho lòng người vui mừng”.
Sau này, Ngụy Trưng càng dám nói trực ngôn hơn. Hễ thấy Lý Thế Dân có điểm gì không đúng, liền lập tức nói ra ngay. Nhiều lúc cũng khiến Lý Thế Dân bối rối. Nhưng Ngụy Trưng vẫn cứ giữ tính trực ngôn bộc trực đó, có lúc khiến Lý Thế Dân không có đường lùi.
Một lần khi thiết triều, Ngụy Trưng tranh luận với Lý Thế Dân khiến cả hai mặt đỏ gay gắt. Lý Thế Dân thực sự không nghe được nữa, chỉ muốn nổi giận lôi đình, lại sợ mất đi danh tiếng khiêm tốn tiếp thu can gián trước quần thần, đành miễn cưỡng nhẫn chịu. Sau khi thoái triều, Lý Thế Dân ấm ức trong lòng. Về đến cung, gặp Trưởng Tôn Hoàng hậu, Lý Thế Dân không nén nổi nỗi tức giận đùng đùng, bèn nói với Hoàng hậu: “Sẽ có một ngày ta phải giết chết kẻ hạ thần hỗn xược này”.
Trưởng Tôn Hoàng hậu rất hiếm khi thấy vua nổi giận như thế, nên cẩn thận hỏi: “Không biết người bệ hạ muốn giết là ai?”.
Lý Thế Dân nói: “Còn ai ngoài gã Ngụy Trưng? Trước mặt văn võ bá quan mà hắn dám làm nhục ta, ta thực sự không thể nhẫn nhịn được nữa”.
Không ngờ Trưởng Tôn Hoàng hậu nghe xong, chẳng nói chẳng rằng, quay về nội thất, thay bộ lễ phục trang trọng, rồi đi ra cung kính bái lạy Thái Tông.
Lý Thế Dân kinh ngạc hỏi: “Hoàng hậu làm gì đó?”.
Trưởng Tôn Hoàng hậu nói: “Thần nghe nói, bậc Thiên tử anh minh mới có đại thần chính trực. Nay Ngụy Trưng chính trực như thế này, đã chứng minh bệ hạ là anh minh, thần sao có thể không bái lạy mà mừng cho bệ hạ được”.
Lời nói của Hoàng hậu liền dập tắt ngọn lửa giận dữ bừng bừng trong lòng Thái Tông. Khi bình tĩnh lại suy nghĩ những lời của Ngụy Trưng, Thái Tông thấy ông ta kiên trì rất có lý.
Năm 643 Ngụy Trưng mắc trọng bệnh từ trần. Lý Thế Dân rất buồn, rơi hai hàng lệ nói: “Một người lấy tấm đồng làm gương soi có thể thấy y phục mũ mão mình không ngay ngắn, dùng lịch sử làm gương soi có thể thấy nguyên nhân hưng vong của quốc gia, dùng người làm gương soi có thể phát hiện ra mình làm đúng hay sai. Ngụy Trưng chết đi, trẫm đã mất đi một tấm gương soi rất tốt rồi”.
Lý Thế Dân trọng dụng nhân tài, tiếp thu rộng rãi các ý kiến can gián của các đại thần, do đó nền chính trị xuất hiện cục diện khai sáng. Vua còn chú ý giảm nhẹ các lao dịch cho bách tính lê dân, áp dụng các biện pháp phát triển sản xuất. Triều Đường bắt đầu bước vào thời kỳ phồn vinh, trật tự xã hội ổn định. Đây chính là thời kỳ thịnh trị nổi tiếng mà lịch sử gọi là “Trinh Quán chi trị”.