Không chỉ là một món ăn nổi tiếng, bún bò Huế còn là kết tinh văn hóa đặc trưng của xứ Huế, phản ánh chiều sâu đời sống tín ngưỡng, tập quán ẩm thực và kỹ nghệ nấu nướng truyền thống.
Theo nghệ nhân ẩm thực Mai Thị Trà, món ăn này bắt nguồn từ các lễ tế cổ truyền. Khi bún dần phổ biến, người dân thay xôi bằng bún trong món xáo thịt sau cúng lễ, từ đó dần hình thành món bún bò như ngày nay. Trải qua thời gian, món ăn được hoàn thiện với sự bổ sung của giò heo, chả cua, huyết và rau sống, tạo nên tô bún trọn vẹn về cả hương lẫn sắc.
(Bún bò Huế với các topping chả cua, bò tái, giò heo. Ảnh: JourneysinHue.)
Một yếu tố quan trọng làm nên tên tuổi của bún bò Huế là sợi bún từ làng Vân Cù, nơi có truyền thống làm bún hơn 400 năm. Sợi bún ở đây trắng, dẻo, mềm vừa đủ và đặc biệt phù hợp với nước dùng đậm vị, không bị nát khi nấu lâu.
Linh hồn của món ăn nằm ở nồi nước dùng: được nấu từ xương bò hầm lửa nhỏ, không đậy nắp, với sả và mắm ruốc tạo nên mùi thơm đặc trưng. Mỗi người nấu có một bí quyết riêng, khiến không có hai tô bún nào hoàn toàn giống nhau, góp phần làm phong phú thêm chiều sâu văn hóa của món ăn này.
(Nồi theo kiểu truyền thống để nấu bún bò. Ảnh: Hồ Ngọc Đoan Khương.)
Theo nghệ nhân Hồ Đắc Thiếu Anh, bún bò Huế "đúng chuẩn" phải có vị cay đặc trưng từ nhiều loại ớt, cùng độ ngọt thanh từ xương. Người Huế còn giữ gìn phong cách nấu bún bằng loại nồi truyền thống đáy tròn, cổ thắt để giữ nhiệt và hương vị hiệu quả hơn.
Không chỉ ngon, bún bò Huế còn được xem là món ăn cân bằng giữa âm - dương, mang yếu tố dưỡng sinh theo triết lý phương Đông.
Ngày nay, dù phổ biến trên khắp cả nước và xuất hiện tại nhiều quốc gia như Mỹ, Pháp, Canada hay Australia, bún bò Huế vẫn giữ nguyên tên gọi gắn liền với vùng đất cố đô như một dấu chỉ văn hóa không thể thay thế.
Theo nghệ nhân ẩm thực Mai Thị Trà, món ăn này bắt nguồn từ các lễ tế cổ truyền. Khi bún dần phổ biến, người dân thay xôi bằng bún trong món xáo thịt sau cúng lễ, từ đó dần hình thành món bún bò như ngày nay. Trải qua thời gian, món ăn được hoàn thiện với sự bổ sung của giò heo, chả cua, huyết và rau sống, tạo nên tô bún trọn vẹn về cả hương lẫn sắc.

(Bún bò Huế với các topping chả cua, bò tái, giò heo. Ảnh: JourneysinHue.)
Một yếu tố quan trọng làm nên tên tuổi của bún bò Huế là sợi bún từ làng Vân Cù, nơi có truyền thống làm bún hơn 400 năm. Sợi bún ở đây trắng, dẻo, mềm vừa đủ và đặc biệt phù hợp với nước dùng đậm vị, không bị nát khi nấu lâu.
Linh hồn của món ăn nằm ở nồi nước dùng: được nấu từ xương bò hầm lửa nhỏ, không đậy nắp, với sả và mắm ruốc tạo nên mùi thơm đặc trưng. Mỗi người nấu có một bí quyết riêng, khiến không có hai tô bún nào hoàn toàn giống nhau, góp phần làm phong phú thêm chiều sâu văn hóa của món ăn này.

(Nồi theo kiểu truyền thống để nấu bún bò. Ảnh: Hồ Ngọc Đoan Khương.)
Theo nghệ nhân Hồ Đắc Thiếu Anh, bún bò Huế "đúng chuẩn" phải có vị cay đặc trưng từ nhiều loại ớt, cùng độ ngọt thanh từ xương. Người Huế còn giữ gìn phong cách nấu bún bằng loại nồi truyền thống đáy tròn, cổ thắt để giữ nhiệt và hương vị hiệu quả hơn.
Không chỉ ngon, bún bò Huế còn được xem là món ăn cân bằng giữa âm - dương, mang yếu tố dưỡng sinh theo triết lý phương Đông.
Ngày nay, dù phổ biến trên khắp cả nước và xuất hiện tại nhiều quốc gia như Mỹ, Pháp, Canada hay Australia, bún bò Huế vẫn giữ nguyên tên gọi gắn liền với vùng đất cố đô như một dấu chỉ văn hóa không thể thay thế.