Minh Phương
Thành viên nổi tiếng
Sách Đỏ (danh sách về tình trạng bảo tồn và đa dạng của các loài động vật và thực vật trên thế giới) chia các loài thành chín bậc, dựa trên các tiêu chí về mức độ đe dọa tuyệt chủng như tốc độ suy thoái, kích thước quần thể, phạm vi phân bố...
Vụ việc anh nông dân nuôi gà lôi trắng ở Hưng Yên đặt ra câu hỏi về quy định quốc tế trong việc bảo vệ loài này cũng như nhìn nhận thế nào về việc cá nhân nuôi và nhân giống các loài động vật quý hiếm.
Sách Đỏ IUCN hay gọi tắt là Sách Đỏ - danh sách về tình trạng bảo tồn và đa dạng của các loài động vật và thực vật trên thế giới - chia các loài thành chín bậc dựa trên các tiêu chí về mức độ đe dọa tuyệt chủng như tốc độ suy thoái, kích thước quần thể, phạm vi phân bố, và mức độ phân tách quần thể và khu phân bố, theo trang web của Sách Đỏ IUCN iucnredlist.org.
Các bậc bao gồm:
Tuyệt chủng: Một loài hoặc dưới loài bị coi là tuyệt chủng khi có những bằng chứng chắc chắn rằng cá thể cuối cùng đã chết.
Tuyệt chủng trong tự nhiên: Một loài hoặc dưới loài bị coi là tuyệt chủng trong tự nhiên khi các cuộc khảo sát kỹ lưỡng ở sinh cảnh đã biết và hoặc sinh cảnh dự đoán, vào những thời gian thích hợp (theo ngày, mùa, năm) xuyên suốt vùng phân bố lịch sử của loài đều không phát hiện cá thể nào.
Cực kỳ nguy cấp: Một loài được coi là cực kỳ nguy cấp khi nó phải đối mặt nguy cơ tuyệt chủng trong tự nhiên rất cao trong một tương lai rất gần, khi quần thể loài suy giảm đến 80% hoặc diện tích phân bố chỉ còn trên khoảng 100 km².
Nguy cấp: Một loài bị coi là Nguy cấp khi nó phải đối mặt nguy cơ tuyệt chủng trong tự nhiên rất cao trong một tương lai rất gần nhưng kém hơn mức cực kỳ nguy cấp.
Sắp nguy cấp: Một loài bị đánh giá là Sắp nguy cấp khi nó không nằm trong 2 bậc Cực kỳ nguy cấp và Nguy cấp nhưng phải đối mặt nguy cơ tuyệt chủng trong tự nhiên cao.
Sắp bị đe dọa: Một loài bị đánh giá là Sắp bị đe dọa khi nó sắp phải đối mặt nguy cơ tuyệt chủng trong tự nhiên cao.
Ít quan tâm: Bao gồm các loài không được coi là phụ thuộc bảo tồn hoặc sắp bị đe dọa.
Thiếu dữ liệu: Một loài được coi là thiếu dẫn liệu khi chưa đủ thông tin để có thể đánh giá trực tiếp hoặc gián tiếp về nguy cơ tuyệt chủng, căn cứ trên sự phân bố và tình trạng quần thể.
Gà lôi trắng (tên khoa học: Lophura nycthemera) được xếp vào bậc ít quan tâm trong Sách Đỏ IUCN.
Ngoài Sách Đỏ IUCN, còn một văn bản khác phân chia danh lục các loài nguy cấp trên thế giới, đó là Công ước quốc tế về buôn bán các loại động, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES).
Đây là một hiệp ước đa phương, ký kết năm 1973 và có hiệu lực từ ngày 1-7-1975. Việt Nam là thành viên của công ước này từ năm 1994.
CITES phân loại các loài vào ba Phụ lục:
Phụ lục I: Bao gồm các loài bị đe dọa tuyệt chủng (ví dụ: hổ, tê tê). Cấm buôn bán thương mại, trừ các trường hợp đặc biệt (như nghiên cứu khoa học). Yêu cầu cả giấy phép xuất khẩu và nhập khẩu để đảm bảo không gây hại cho sự sống còn của loài và mục đích phi thương mại.
Phụ lục II: Bao gồm các loài chưa bị đe dọa nhưng cần kiểm soát để tránh khai thác không bền vững (ví dụ: cá ngựa, một số loài san hô). Cho phép buôn bán với giấy phép xuất khẩu xác nhận nguồn gốc hợp pháp và không gây hại cho quần thể hoang dã.
Phụ lục III: Bao gồm các loài được một quốc gia liệt kê để yêu cầu hợp tác quốc tế trong kiểm soát buôn bán, yêu cầu giấy phép xuất khẩu hoặc chứng nhận nguồn gốc.
Gà lôi trắng không được liệt kê trong Phụ lục của CITES, nghĩa là buôn bán quốc tế không bị CITES kiểm soát, trừ khi quốc gia thành viên áp dụng biện pháp nghiêm ngặt hơn trong nước theo Điều XIV của CITES.
CITES không có quy định cụ thể cấm nuôi nhân giống nhưng khuyến khích các quốc gia thành viên đảm bảo rằng các hoạt động nuôi nhốt không gây tác động tiêu cực đến quần thể hoang dã, bao gồm nguy cơ lai tạp.
Vụ việc anh nông dân nuôi gà lôi trắng ở Hưng Yên đặt ra câu hỏi về quy định quốc tế trong việc bảo vệ loài này cũng như nhìn nhận thế nào về việc cá nhân nuôi và nhân giống các loài động vật quý hiếm.
Sách Đỏ IUCN hay gọi tắt là Sách Đỏ - danh sách về tình trạng bảo tồn và đa dạng của các loài động vật và thực vật trên thế giới - chia các loài thành chín bậc dựa trên các tiêu chí về mức độ đe dọa tuyệt chủng như tốc độ suy thoái, kích thước quần thể, phạm vi phân bố, và mức độ phân tách quần thể và khu phân bố, theo trang web của Sách Đỏ IUCN iucnredlist.org.
Các bậc bao gồm:
Tuyệt chủng: Một loài hoặc dưới loài bị coi là tuyệt chủng khi có những bằng chứng chắc chắn rằng cá thể cuối cùng đã chết.
Tuyệt chủng trong tự nhiên: Một loài hoặc dưới loài bị coi là tuyệt chủng trong tự nhiên khi các cuộc khảo sát kỹ lưỡng ở sinh cảnh đã biết và hoặc sinh cảnh dự đoán, vào những thời gian thích hợp (theo ngày, mùa, năm) xuyên suốt vùng phân bố lịch sử của loài đều không phát hiện cá thể nào.
Cực kỳ nguy cấp: Một loài được coi là cực kỳ nguy cấp khi nó phải đối mặt nguy cơ tuyệt chủng trong tự nhiên rất cao trong một tương lai rất gần, khi quần thể loài suy giảm đến 80% hoặc diện tích phân bố chỉ còn trên khoảng 100 km².
Nguy cấp: Một loài bị coi là Nguy cấp khi nó phải đối mặt nguy cơ tuyệt chủng trong tự nhiên rất cao trong một tương lai rất gần nhưng kém hơn mức cực kỳ nguy cấp.
Sắp nguy cấp: Một loài bị đánh giá là Sắp nguy cấp khi nó không nằm trong 2 bậc Cực kỳ nguy cấp và Nguy cấp nhưng phải đối mặt nguy cơ tuyệt chủng trong tự nhiên cao.
Sắp bị đe dọa: Một loài bị đánh giá là Sắp bị đe dọa khi nó sắp phải đối mặt nguy cơ tuyệt chủng trong tự nhiên cao.
Ít quan tâm: Bao gồm các loài không được coi là phụ thuộc bảo tồn hoặc sắp bị đe dọa.
Thiếu dữ liệu: Một loài được coi là thiếu dẫn liệu khi chưa đủ thông tin để có thể đánh giá trực tiếp hoặc gián tiếp về nguy cơ tuyệt chủng, căn cứ trên sự phân bố và tình trạng quần thể.
Gà lôi trắng (tên khoa học: Lophura nycthemera) được xếp vào bậc ít quan tâm trong Sách Đỏ IUCN.

Một cá thể gà lôi trắng. Ảnh: INATURALIST
Ngoài Sách Đỏ IUCN, còn một văn bản khác phân chia danh lục các loài nguy cấp trên thế giới, đó là Công ước quốc tế về buôn bán các loại động, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES).
Đây là một hiệp ước đa phương, ký kết năm 1973 và có hiệu lực từ ngày 1-7-1975. Việt Nam là thành viên của công ước này từ năm 1994.
CITES phân loại các loài vào ba Phụ lục:
Phụ lục I: Bao gồm các loài bị đe dọa tuyệt chủng (ví dụ: hổ, tê tê). Cấm buôn bán thương mại, trừ các trường hợp đặc biệt (như nghiên cứu khoa học). Yêu cầu cả giấy phép xuất khẩu và nhập khẩu để đảm bảo không gây hại cho sự sống còn của loài và mục đích phi thương mại.
Phụ lục II: Bao gồm các loài chưa bị đe dọa nhưng cần kiểm soát để tránh khai thác không bền vững (ví dụ: cá ngựa, một số loài san hô). Cho phép buôn bán với giấy phép xuất khẩu xác nhận nguồn gốc hợp pháp và không gây hại cho quần thể hoang dã.
Phụ lục III: Bao gồm các loài được một quốc gia liệt kê để yêu cầu hợp tác quốc tế trong kiểm soát buôn bán, yêu cầu giấy phép xuất khẩu hoặc chứng nhận nguồn gốc.
Gà lôi trắng không được liệt kê trong Phụ lục của CITES, nghĩa là buôn bán quốc tế không bị CITES kiểm soát, trừ khi quốc gia thành viên áp dụng biện pháp nghiêm ngặt hơn trong nước theo Điều XIV của CITES.
CITES không có quy định cụ thể cấm nuôi nhân giống nhưng khuyến khích các quốc gia thành viên đảm bảo rằng các hoạt động nuôi nhốt không gây tác động tiêu cực đến quần thể hoang dã, bao gồm nguy cơ lai tạp.